Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012
THỦ TƯỚNG NGẠO MẠN và CÁI GIÁ PHẢI TRẢ !
Việt Nam của năm 2012 là đất nước chìm trong khối nợ xấu khổng lồ, bắt nguồn từ hệ thống ngân hàng, khối quốc doanh yếu kém, những doanh nghiệp tư nhân thoi thóp vì thiếu vốn và sự thao túng nền kinh tế của các nhóm lợi ích.
Trong bối cảnh đó, những năm qua nhiều ý kiến chỉ trích đã hướng về phía thủ tướng đương nhiệm, ông Nguyễn Tấn Dũng vì quản lý lỏng lẻo và chủ nghĩa bè phái, với cao trào là Hội nghị Trung ương 6 vừa bế mạc ngày 15/10.
Bài viết nhìn lại về một vài dấu ấn của ông lên nền kinh tế Việt Nam từ lúc nhậm chức hồi năm 2006.
“Thủ tướng hiện đại”
Từ góc nhìn của giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc, ông Dũng là “Thủ tướng hiện đại đầu tiên của Việt Nam”.
Là người mà Thayer gọi là “kinh tế gia theo chủ nghĩa dân tộc” trong một cuộc phỏng vấn với BBC ngày 16/10, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu trong việc giám sát tăng trưởng kinh tế Việt Nam kể từ năm 2006 và là người lãnh đạo cao cấp trong việc lèo lái và thỏa thuận với các chính khách và nhà đầu tư nước ngoài.
Ngay từ lúc nhậm chức, ưu tiên hàng đầu của ông là hỗ trợ xuất khẩu tài nguyên năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, các sản phẩm hải sản và may mặc; ngoài ra còn có phát triển những nguồn tài nguyên năng lượng đa dạng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ví dụ như thủy năng và năng lượng hạt nhân.
Ngoài ra, việc đầu tư vào những công trình như nhà máy lọc dầu Dung Quất của chính phủ cho thấy xu hướng muốn tách dần ra khỏi việc xuất khẩu tài nguyên dạng thô bằng cách trang bị cho kinh tế nội địa khả năng chế biến trước khi xuất khẩu nhằm nâng cao vị trí của Việt Nam trên chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhận xét về những thành tựu nổi bật trong nhiệm kỳ của thủ tướng, giáo sư Carl Thayer nói: "Khi Việt Nam phải gánh chịu khủng hoảng hồi năm 2008, thủ tướng đã đề xuất và thực hiện gói kích cầu để tạo một lá chắn khá tốt cho Việt Nam."
Một ý kiến khác từ chuyên gia Châu Á của hãng phân tích ONDD, ông Raphael Cecchi thì cho rằng "Nghị quyết số 11 của chính phủ vào năm ngoái đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô đáng kể, kiềm chế thành công lạm phát".
'Ngạo mạn'
Hàng triệu người bị ảnh hưởng bởi lạm phát và kinh tế yếu kém trong vài năm qua.
Là "một thủ tướng nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam và là người theo đuổi chính sách tăng trưởng nóng", tuy nhiên, “điểm yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn và thiếu khả năng lắng nghe những ý kiến quan trọng,” giáo sư Carl Thayer bình luận.
Để giúp tiến hành cải cách kinh tế, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thành lập Tổ chuyên gia tư vấn về cải cách kinh tế và hành chính. Đến khi thủ tướng Phan Văn Khải kế nhiệm, ông đưa tổ chuyên gia này lên thành Ban nghiên cứu về kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Chính phủ.
Thế nhưng ngay khi nhậm chức, ông Dũng đã giải thể ban nghiên cứu này qua Quyết định số 1008/QĐ-TTg (ban hành ngày 28/7/2006).
“Ông Dũng đã loại bỏ đội ngũ cố vấn của thế hệ đi trước và thay vào đó bằng một mạng lưới bè phái của riêng mình” – Giáo sư Carl Thayer nhận xét.
Sự ngạo mạn này còn được cho là thể hiện qua cách ông đề bạt nhân sự.
“Chỉ cần nhìn cách thủ tướng đề bạt người nhà và những người thân cận vào các vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước và các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước cũng đủ thấy ông tự tin thế nào vào sức mạnh vây cánh của mình.” Một người có quan hệ cấp cao trong bộ máy Đảng Cộng sản nói với BBC.
“Thực ra ngay từ lúc đầu của Hội nghị Trung ương, những người trong cuộc đều biết rằng cả ông và những người thân tín của ông trong Đảng sẽ không mất chức. Tin đồn rằng thủ tướng bị cách chức chứng tỏ dư luận vẫn còn quá ngây thơ”, người muốn ẩn danh này nói thêm.
Thói quen bỏ ngoài tai những lời khuyên can đã trở thành một điều được nói đến thường xuyên của chính phủ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong đó có những lời khuyên can về sự bành trướng của mô hình Tập đoàn Nhà nước, những đầu tư công thiếu hiệu quả, làm thâm hụt vốn, ảnh hưởng môi trường cũng như sự bùng nổ của tăng trưởng tín dụng từ những kinh tế gia, nhà khoa học trong và ngoài nước cũng như các lãnh đạo và cựu lãnh đạo quốc gia mà tiêu biểu có tướng Võ Nguyên Giáp, cựu phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình.
Tín đồ của tăng trưởng nóng
Ông Dũng có tham vọng biến Vinashin thành tập đoàn mạnh cấp khu vực.
Sai lầm lớn nhất của Thủ tướng Dũng là đã theo đuổi tăng trưởng bằng mọi giá, lấy trọng tâm là khối quốc doanh trong lúc nền kinh tế đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất khu vực trong suốt một thập niên qua.
Không ít các ý kiến cho rằng với tham vọng tăng trưởng thần kỳ, việc ông Dũng xây dựng các tập đoàn Nhà nước lấy ý tưởng từ Bấm mô hình Chaebol của Nam Hàn để trang bị cho nền kinh tế những 'cú đấm thép' là không có gì đáng ngạc nhiên.
Tương tự với Chaebol, các tập đoàn Nhà nước của thủ tướng được ưu đãi những khối tín dụng khổng lồ, được đảm bảo từ phía chính phủ. Nếu tăng trưởng tín dụng trong những năm 90 chỉ có 20% thì đến năm 2010, mức này lên đến 136%. Tín dụng chủ yếu được bơm vào các doanh nghiệp Nhà nước và các thế lực đầu cơ chứng khoán, bất động sản.
Tuy nhiên khác với Chaebol, các tập đoàn Nhà nước Việt Nam không được hình thành qua quá trình tích tụ vốn, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và không những không thay thế được xuất khẩu mà còn đẩy cán cân thương mại sang nhập siêu khi nhập khẩu quá nhiều vật liệu.
Không những thế, quyết định cho phép các doanh nghiệp nhà nước đầu tư đa ngành trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 – 2010 kèm theo sự quản lý yếu kém của thủ tướng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này lạm dụng nguồn cung cấp tín dụng dồi dào để phát triển đa ngành, lũng đoạn nền kinh tế nội địa với các công ty con làm ăn thua lỗ, khiến 70% nợ xấu trong tổng 200 nghìn tỷ nợ xấu tại các ngân hàng thuộc về khối quốc doanh.
"Điểm yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn và thiếu khả năng lắng nghe những ý kiến quan trọng"
Giáo sư Carl Thayer, học viện quốc phòng Úc
Thu hút vốn đầu tư và vay vốn lãi suất thấp từ Trung Quốc để khắc phục thâm hụt mậu dịch là một phần khác trong chiến lược tăng trưởng của thủ tướng; tuy nhiên điều này không những gây phản ứng mạnh mẽ từ dư luận trong bối cảnh tranh chấp lãnh hải trên biển Đông giữa hai nước mà còn khiến Việt Nam ngày càng phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Theo số liệu của Bộ Công thương thì trong 4 tháng đầu năm 2011, nhập siêu Việt Nam là gần 4,9 tỷ đôla, trong đó riêng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm gần 4 tỷ đôla.
Điều đáng chú ý là nhập siêu với Trung Quốc dưới thời thủ tướng Dũng là ở mức 12,7 tỷ đôla, cao gấp 5 lần mức 2,67 tỷ đôla năm 2005 trong nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải.
Sự nhập siêu này được Trung tâm nghiên cứu kinh tế và Chính sách VEPR, đại học quốc gia Hà Nội lý giải là dưới thời thủ tướng Dũng, có đến 90% các dự án lớn, chủ yếu là công nghiệp thượng nguồn của các tập đoàn kinh tế Việt Nam trụ cột với giá trị trúng thầu từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đôla có nhà thầu là Trung Quốc.
Không những thế, các nhà thầu này thường chỉ sử dụng lao động và thiết bị đem từ Trung Quốc sang, dẫn đến việc Việt Nam không được hưởng chút lợi ích nào về lao động việc làm trong các thương vụ với Trung Quốc. Trong khi đó, đầu tư nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% tổng FDI của Việt Nam.
Để bù đắp cho sai lầm trong chính sách mậu dịch với Trung Quốc, chính phủ thủ tướng Dũng đã phải tìm kiếm những khoản FDI khác từ nước này để cân bằng cán cân thương mại, bất chấp những quan ngại về sự phá hoại môi trường và an ninh quốc phòng.
Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam so với khu vực qua các năm
Dự án Bauxite Tây Nguyên mà tác giả David Pilling trong bài viết đăng ngày 6/5/2009 trên Financial Times gọi là sự 'triều cống' của Việt Nam để đổi lại khoản đầu tư 15 tỷ đôla nhằm giải quyết 11 tỷ đôla nhập siêu năm đó là một trong những dự án như vậy.
Để đảm bảo tăng trưởng, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng còn phải chỉ đạo thu hồi đất nông nghiệp cho các dự án biệt thự, sân golf, công nghiệp.
Nhiều vụ trong số này đã trở thành cưỡng chế bạo lực, dẫn đến những vụ như Văn Giang hồi tháng Tư năm nay. Điều này khá giống với tình hình tại Trung Quốc trong bản báo cáo mới nhất của Ân xá Quốc tế.
Chỉ tính trong 5 năm từ 2006-2010, cả Việt Nam đã mất khoảng 200 nghìn ha đất cho các dự án công nghiệp, sân golf, biệt thự, dẫn đến gần 2,5 triệu lao động mất việc và người nông dân có 3-4 tháng nông nhàn mỗi năm, theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh Xã hội.
Lạm phát "quán quân" khu vực
Bất ổn vĩ mô đã kéo theo biến động trong khu vực ngân hàng Việt Nam
Không có nước nào trong khu vực hoặc thậm chí có điều kiện tương tự mà lạm phát liên tục cao hơn tăng trưởng như Việt Nam những năm qua
Hồi tháng 10/2007, trả lời báo chí trong nước, ông Nguyễn Sinh Hùng (lúc đó là phó thủ tướng) tự tin khẳng định “chỉ tiêu tăng trưởng 9% trong năm 2008 là khiêm tốn”. Thậm chí ông cho rằng trong điều kiện thuận lợi, khả năng tăng trưởng lên đến hai con số là hoàn toàn có thể.
Có lẽ lúc đó ông Hùng đã không lường trước rằng, thứ duy nhất tăng lên hai con số năm 2008 là ... lạm phát.
Lạm phát năm 2007-2008 bùng nổ vì nhiều lý do, trong đó có sự tăng mạnh của mức lương tối thiểu, gia tăng giá cả của hàng hóa quốc tế và việc luồng đầu tư nước ngoài đổ vào ồ ạt sau khi Việt Nam gia nhập WTO cuối năm 2006 mà không có chính sách kiểm soát; kèm theo chính sách tiền tệ lỏng lẻo, thiếu linh hoạt cũng như tỷ giá cứng nhắc.
""Việt Nam của năm 2012 là nơi của một chính phủ đưa ra quyết định xây dựng những công trình ở những vị trí kỳ cục""
Geoffrey Cain, cây bút trên Foreign Policy
Ngân hàng Nhà nước lúc đó phải bơm tiền đồng vào nền kinh tế để giảm nhẹ áp lực tăng tỷ giá, làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát, đưa lạm phát tháng Tám năm 2008 lên mức 28,2%, cao nhất kể từ năm 1993, theo số liệu từ Tổng cục thống kê.
Không những thế, những chi tiêu công quá mức (chiếm khoảng 20% GDP, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương) thiếu hiệu quả, không tạo ra sản phẩm tương ứng, không tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế cũng như các khoản vay theo quan hệ và sự độc quyền giá xăng, điện khiến lạm phát như quả bom chỉ chực bùng nổ và thực tế đã tiếp tục leo lên 23,2%, mức cao nhất Châu Á trong tháng Tám năm 2011.
Cũng kể từ năm 2008, mặc dù triển vọng tăng trưởng vẫn bị hạ thường xuyên nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn liên tục trượt mốc chỉ tiêu, với tăng trưởng trượt dốc từ mức 8,2% năm 2006 xuống còn 5,2% trong năm 2012 theo báo cáo tháng Mười của Ngân hàng Thế giới.
Đầu tư để kiếm lỗ?
Thủ tướng Dũng trong những phút cuối diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 6 của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Một trong những dấu ấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên kinh tế Việt Nam là việc hướng đầu tư công vào những dự án hoặc có rất ít, hoặc không có chút giá trị kinh tế nào trong khi cả người dân lẫn doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều than vãn về hạn chế cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Chỉ số được sử dụng rộng rãi trong việc đo đạt hiểu quả đầu tư là Hệ số sử dụng vốn đầu tư (ICOR). Mục đích của hệ số này là tính ra phải mất bao nhiêu đồng vốn đầu tư mới tạo ra một đồng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chỉ số ICOR càng cao đồng nghĩa với vốn đầu tư được sử dụng kém hiệu quả.
Nếu báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy ICOR dưới thời cố thủ tướng Võ Văn Kiệt giai đoạn 1991-1995 chỉ là 3,5 và tăng lên 3,9 trong nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải thì dưới thời thủ tướng Dũng, hệ số ICOR tăng vọt lên 6,15 trong giai đoạn 2007-2008 và đến năm 2009 thì lên đến 8.
Dù con số này đến năm 2010 đã giảm xuống mức 6,9 nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Đáng chú ý hơn, ICOR của khu vực Nhà nước năm 2010 là 10,2 lần, cao gấp rưỡi hệ số chung trong khi đó, ICOR của khu vực ngoài Nhà nước năm 2010 là 3,9 lần, thấp hơn hệ số 4,9 lần của năm 2006, chứng tỏ sự vượt trội trong hiệu quả đầu tư.
Ngoài ra báo cáo của sứ quán Anh hồi tháng Sáu cũng chỉ ra khoảng cách năng suất lao động của các doanh nghiệp Nhà nước so với cả khu vực doanh nghiệp nói chung tăng ngày càng lớn qua thời gian, từ 1:4 năm 2000 đến 1:8 năm 2008.
Chỉ cần lấy ví dụ những công trình mà thủ tướng đích tay ký như cảng Vân Phong, với tổng mức đầu tư 3,6 tỷ đôla và lễ khởi công hoành tráng tốn kém hơn 4,144 nghìn tỷ đồng giờ chỉ còn lại "114 cọc thép và một xà lan toàn những máy móc rỉ" (theo AP); những câu chuyện như sự tiêu phí 4 tỷ đôla của Vinashin hay các dự án bỏ hoang của Vinaconex thì cũng dễ hiểu tại sao cây bút Geoffrey Cain lại phải thốt lên "Việt Nam của năm 2012 là nơi của một chính phủ đưa ra quyết định xây dựng những công trình ở những vị trí kỳ cục" trong bài viết trên trang Foreign Policy hồi tháng Bảy.
Sau những thành tựu
Nỗ lực làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước của ông Nguyễn Phú Trọng được một số người đánh giá cao.
Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục được “phong tặng” các danh hiệu nhất nhì bởi các tổ chức quốc tế.
Về kinh tế, Việt Nam là nước thứ nhì ASEAN từ dưới đếm lên trong năng lực cạnh tranh toàn cầu, theo báo cáo tháng Chín của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF); tụt tổng cộng 16 bậc trong hai lần xếp hạng gần nhất của tổ chức này.
Báo cáo hồi tháng Sáu năm nay của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng chỉ ra rõ những cái 'nhất' khác của kinh tế Việt Nam như lạm phát, tăng trưởng tín dụng, lãi suất và tỷ lệ nợ xấu cao nhất Châu Á những năm qua.
Đó là chưa kể đến những danh hiệu phi kinh tế khác như "nước bảo vệ động vật hoang dã tồi nhất" của Quỹ bảo vệ thiên nhiên thế giới (WFF) hay vị trí 172/179 trong xếp hạng những nước thù địch tự do Internet của Tổ chứng phóng viên không biên giới (RSF).
Những sai phạm nghiêm trọng trong điều hành của ông Dũng được cho là lý do khiến Trung ương Đảng phải họp kín sớm hơn dự đoán hồi đầu tháng Mười.
Trả lời về kết quả Hội nghị Trung ương Sáu sau buổi bế mạc ngày 15/10, giáo sư Carl Thayer nói:
"Nguyễn Xuân Phúc là ứng cử viên khá sáng giá, vì không những là người được ông Dũng chọn đầu tiên mà còn là phó thủ tướng duy nhất nằm trong Bộ Chính trị"
Giáo sư Carl Thayer
"Trên thực tế, Thủ tướng Dũng đã được Trung ương trao cho một nghị trình để thực hiện. Và hội nghị trung ương lần tiếp theo, rất có thể sẽ mở ra vào tháng 12 hoặc đầu năm tới.
Và từ nay tới đó, Thủ tướng Dũng phải làm tốt, căn cứ vào những gì ông ta đã hứa khi tự phê. Sẽ có nỗ lực phối hợp để xác định rõ và xử những ai bị cho là chịu trách nhiệm về Vinashin và Vinalines. Ban Kinh tế Trung ương sẽ họp để tư vấn cho Đảng qua các phân tích nhằm buộc ông Dũng phải có trách nhiệm về hành vi của mình.
Bộ Chính trị cũng sẽ phải ra được một kế hoạch hành động mang tính phối hợp nhằm giải quyết các điều yếu kém đã nêu ra ở hội nghị trung ương lần này."
Nhận định về người có khả năng kế nhiệm Thủ tướng Dũng, ông Thayer cho rằng phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là ứng cử viên khá sáng giá, vì không những là người được ông Dũng chọn đầu tiên mà còn là phó thủ tướng duy nhất nằm trong Bộ chính trị.
“Nhiều người cho rằng phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là người khá trung lập trong quan hệ trong Đảng cộng sản. Tuy nhiên thực tế là ông Phúc là người rất thân tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,” nguồn tin giấu tên có quan hệ cấp cao trong Đảng nói với BBC.
“Trong mắt ông Dũng, ông Phúc là người 'dễ bảo' và có đường lối ôn hòa.”
TheoBBC
Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012
TẠM HẠ MÀN Và SỰ IM LẶNG CỦA BÀY CỪU !
Submitted by Trưởng Biên Tập on Tue, 10/16/2012 – 20:12
Lê Diễn Đức
“Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương đã thành công tốt đẹp”!
Chẳng hề cường điệu, có thể nói bất kỳ hội nghị nào, từ tiểu nghị (họp tổ dân phố, hội phu huynh học sinh), đến trung nghị (họp cấp tỉnh, thành), hoặc đại, cực đại nghị (Hội nghị Trung ương hay Bộ Chính Trị của Đảng Cộng sản Việt Nam) đều được kết thúc bằng điệp khúc trên, thậm chí “tốt đẹp” thường được thay bằng “rực rỡ”. Hội nghị Trung ương 6 (HN TW6) cũng không nằm ngoài quy luật tự sướng muôn thưở.
Nhưng có chút khác biệt. Lần này ĐCSVN đã “thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân“.
Biết lỗi và xin lỗi là thái độ hiếm có trong văn hoá hành xử của ĐCSVN kể từ khi ra đời. Nhưng làm sao có thể không xin lỗi, khi trong con mắt của dân chúng trong nước cũng như thế giới bên ngoài, hình ảnh đất nước Việt Nam bị méo mó thảm hại nhất kể từ năm 1986.
Trong diễn văn bế mạc, sau “bản nhạc” ve vuốt một số cái gọi là “thành tích”, dù cố gắng diễn đạt cốt làm giảm nhẹ đi sức nặng, Tổng bí thư (TBT) Nguyễn Phú Trọng, đã phải liệt kê tình trạng thực tế đang làm mất đi nghiêm trọng lòng tin dân chúng vào bộ máy điều hành đất nước:
“Áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; nợ xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng thấp; hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; lãi suất ngân hàng vẫn còn quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải thiện; thị trường vàng còn nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xã hội không đạt được kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó khăn. Trật tự, an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội, tội phạm, tham nhũng, tiêu cực còn nhiều phức tạp”…
Không cá biệt
Hội nghị Trung ương 6 (NG TW6) kéo dài hai tuần, thu hút sự quan tâm rộng lớn của dư luận xã hội, nóng bỏng hơn nhiều những sự kiện trước đó.
Hội nghị được tiến hành kín cổng cao tường đến mức “Quan Làm Báo”, một trang web nổi bật chuyên nắm bắt các tin đồn từ hậu trường cũng chỉ đưa ra những phán đoán mơ hồ.
Trước hết, cần chú ý rằng, cuộc đấu đá nội bộ trong HN TW 6 không phải cá biệt. Trên thượng tầng cấu trúc của ĐCSVN đã nhiều lần diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực tuơng tự.
Trong những năm 1975-1986, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đã nắm thế thượng phong, khuynh loát toàn Bộ Chính Trị (BCT). Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguời bị Duẩn-Thọ triệt hạ uy thế, là điển hình của cuộc giành ảnh hưởng trong giai đoạn này.
Sau hội nghị Thành Đô năm 1990, sau cái bắt tay trở lại của ĐCSVN với “kẻ thù truyền kiếp” Trung Quốc, năm 1991 Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị loại khỏi BCT vì có quan điểm thân Nga và phương Tây.
Trước đó, tháng 3/1990, Trần Xuân Bách, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, đã bị kỷ luật ra khỏi BCT và bị loại hẳn khỏi sân khấu chính trị, vì có tư tưởng đổi mới theo xu hướng đa nguyên, đa đảng của Gorbachev (Liên Xô).
Cuối năm 2001, mặc dù đã nghỉ hưu, Lê Đức Anh và Đỗ Mười đã vận động thành công kéo Lê Khả Phiêu tuột khỏi ghế Tổng Bí thư (TBT) và Nông Đức Mạnh lên thay thế như một giải pháp dung hoà.
Trong đại hội X, tháng 4 năm 2006, Phan Văn Khải nghỉ hưu, Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu chính phủ cũng đã làm tốn nhiều giấy bút của các nhà bình luận về một khuôn mặt được cho là “cấp tiến”, có thể mang lại nhiều cải cách cho Việt Nam. Nhưng trước đại hội đảng 11 vào đầu tháng 1/2012, từ khủng hoảng Vinashin và những vụ bê bối khác, cuộc chiến nội bộ tái diễn. Sau những đợt phản công, đặc biệt trên mặt trận truyền thông, Nguyễn Tấn Dũng đã trụ lại được trên chiếc ghế Thủ tướng.
Sở dĩ bầu không khí bao trùm HN TW6 năm nay nóng bóng và cuốn hút sự chú ý của xã hội hơn bao giờ hết, vì nó diễn ra trong lúc hàng loạt thông tin được tung ra trên báo chí ngoài lề đảng về các vụ bê bối kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng liên quan đến chính sách của chính phủ và những nghi ngờ về mối quan hệ thân hữu giữa giới đầu sỏ ngân hàng với Thủ tướng, gia đình ông và phe nhóm lợi ích, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của đất nước và đời sống thường nhật của mọi tầng lớp xã hội.
HN TW 6 còn hấp dẫn, mang kịch tính hơn vì cuộc đấu đá này được cho là trận thỉ hí sống còn giữ một bên là TBT Nguyễn Phú Trọng cùng Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, một bên khác là Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng.
Báo nước ngoài cũng nhận định tuơng tự. Tờ Bangkok Post ngày 15/10 viết:
“Dẫn đầu cuộc tấn công vào ông Dũng không ai khác là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người đã rọi ánh sáng vào những vụ bê bối xung quanh thủ tướng và chính phủ của ông. Nền kinh tế chậm chạp, lạm phát, tham nhũng và khủng hoảng ngân hàng trong những tuần gần đây đã được xem là tất cả các tiêu cực đối với ông Dũng”.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, thực tế trong mấy chục năm cầm quyền của ĐCSVN cho thấy, thời nào cũng có các cuộc đấu đá nội bộ, chỉ khác nhau mức độ, nhưng không một cuộc đấu đá nào có thể làm tan rã thượng tầng kiến trúc. HN TW 6 không là ngoại lệ, dù gay gắt và có nhiều kịch tính.
Sự tồn tại của đảng là trên hết
Kết quả của HN TW 6 không làm những người có kinh nghiệm về thời cuộc bất ngờ.
Trong bài “Hội nghị Trung Ương 6 tại Hà Nội: Việt Nam quo vadis?” viết ngày 3/10/2012, phân tích các yếu tố trong xã hội VN có thể mang lại những thay đổi, tôi đã từng nhận định về “giới quyền lực chóp bu”:
“Đấu đá nhau tranh giành quyền lực, nhưng tay nào cũng có con tin để áp lực lên đối thủ chính trị, vì tay nào cũng có bàn tay ít nhiều nhúng chàm, không bản thân thì người thân trong gia đình, họ hàng. Phương án cuối cùng sẽ là thoả hiệp cứu đảng. Một tay nào đó nếu bị buộc rời ghế cũng sẽ hạ cánh bình an, vì sẽ được bảo đảm an toàn trong cuộc mặc cả. Đừng đặt hy vọng nào từ biến động về nhân sự (nếu có) của Hội nghị trung ương 6 (đang diễn ra từ ngày 1 đến 15/10 tại Hà Nội) sẽ mang lại điều tích cực gì đó cho tiến trình Dân chủ của VN. Gần 200 uỷ viên trung uơng, tập hợp quan trọng nhất tạo ra toàn bộ bộ máy cai trị, vẫn sẽ mãi giữ vững chắc nguyên tắc tuyệt đối: Còn đảng còn mình”.
Nói là thế, nhưng không phải ai cũng tin vào nhận định nêu trên (biết rồi, khổ lắm, nói mãi), vì ngay sau diễn văn bế mạc của TBT Nguyễn Phú Trọng, lướt trên các diễn đàn mạng, ta gặp rất nhiều lời ca thán, thất vọng. Vẫn nhiều người còn giữ niềm tin ngây ngô về một sự thay đổi tích cực nào đó.
Nhờ thông tin ngoài lề đảng, người ta nhìn thấy rõ Nguyễn Tấn Dũng – con người, công việc lẫn tư cách đạo đức. Đứng đầu chính phủ từ năm 2006, trong tất cả các thủ tướng của CSVN, tính từ Phạm Văn Đồng, ông Dũng là người gây ra những hậu quả tệ hại nhất cho đất nước về kinh tế, đưa đất nước lệ thuộc ngày mỗi sâu vào Trung Quốc trong mọi lĩnh vực. Một bản cáo trạng dài về “tội” của ông Dũng đã được nhà văn, nhà báo kỳ cựu, đại tá Quân đội Nhân dân Phạm Đình Trọng tổng hợp trong bài “Ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực“.
Một nhóm gồm những người chán ngán và căm ghét Nguyễn Tấn Dũng, muốn ông Dũng rời ghế Thủ tướng, dù không biết chắc người thay thế tốt hơn hay không, nhưng đơn giản là, quá tệ thì không nên tiếp tục tại vị.
Nhóm thứ hai gồm những người hiểu được vị thế của ông Dũng trong cuộc chơi và phương thức thoả hiệp truyền thống của ĐCSVN, thì không tin ông Dũng sẽ ra đi và cho rằng, sự ra đi này chẳng mang lại ý nghĩa gì cho phép giải bài toán hiện tại của đất nước. Nhận định đúng thuộc nhóm thứ hai này.
Mặc dù “lần đầu tiên, Trung ương tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn trong không khí dân chủ, thẳng thắn và xây dựng“, và “Bộ Chính trị thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên”, nhưng vì “để giữ gìn uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng“, “kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ”, Ban Chấp hành Trung ương đã bỏ phiếu quyết định không kỷ luật Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị“.
Một lần nữa, quần chúng nhẹ dạ, cả tin có thêm một bài học cay đắng rằng, nếu họ không đứng lên tranh đấu để tự thay đổi số phận của mình thì đừng bao giờ chờ mong phép màu nào đó sẽ đến từ biến chuyển nhân sự của ĐCSVN.
Lỗi của ai?
Trong bài “Canh bạc của Đảng Cộng sản” trên BBC Việt ngữ ngày 14/10, tác giả bài viết cho rằng, cuộc đấu đá trong HN TW 6 vừa qua cho thấy “ông Nguyễn Tấn Dũng là nạn nhận của quyền lực không bị kiểm soát“.
Theo tôi, Nguyễn Tấn Dũng không phải là nạn nhân mà là ngược lại. Hệ thống quyền lực không bị kiểm soát đẻ ra những con người như ông Dũng. Trước đó đã có những đứa con khác của hệ thống không bị kiểm soát này, đó là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, v.v… Hệ thống quyền lực không bị kiểm soát đã trở thành nạn nhân của chính đứa con mình đẻ ra. Cha mẹ trở thành nạn nhân của những đứa con đổ đốn, lưu manh, trộm cướp.
Trong hệ thống chính trị hiện nay, ĐCSVN độc nhất, nắm toàn quyền định đoạt mọi hoạt động lớn nhỏ của bộ máy nhà nước, không chịu kiểm soát bởi bất kỳ đinh chế nào. Trong giới lãnh đạo chóp bu, nếu vì quản lý yếu kém hoặc dính líu vào các vụ bê bối, hình thức kỷ luật cao nhất thường được áp dụng là cho là nghỉ hưu, hạ cánh an toàn, nhân danh “bảo vệ hình ảnh thiêng liêng của đảng”.
Trong hệ thống như thế, đương nhiên sinh ra những vùng tối, nơi đó người ta có xu hướng giành đỉnh cao nhất của quyền lực để có thể mua bán, đổi chác và ban phát. Quyền song hành với tiền. Tệ nạn mua quan bán chức phổ biến tất yếu phải gắn với tham nhũng, rút ruột công trình và lại quả từ hợp đồng kinh tế, cùng với chủ nghĩa thân hữu và kế tục quyền lực của giới thái tử đảng.
Những con người có quyền lực khuynh loát, như Nguyễn Tiến Dũng, không thể hoặc rất khó kiểm soát khi họ nắm trong tay các lực lượng âm binh an ninh và kinh tế, như cách gọi của tác giả bài viết trên BBC đã dẫn. Những con người này thường gây ra biến động nhân sự ở thượng tầng và cả hạ tầng, làm cho thể chế bị khủng hoảng.
Chỉ có thể ngăn chặn hữu hiệu sự lộng quyền và lạm quyền, hạn chế tối đa tiêu cực xã hội, khi đảng cầm quyền bị kiểm soát, chế tài bởi một quốc hội dân cử, trong đó các đảng đối lập luôn soi xét, không bỏ qua bất kỳ sai phạm nào của đảng cầm quyền. Song song, các định chế tư pháp phải độc lập, không là công cụ của đảng cầm quyền, để có thể xử lý minh bạch và bình đẳng mọi trường hợp sai phạm, không chừa ai, kể cả lãnh đạo cao nhất. Phải có báo chí tự do vì nó là phương tiện năng động và hữu hiệu minh bạch hoá xã hội, vạch mặt các chính trị gia tham nhũng trước dư luận và pháp luật.
Những yếu tố cơ bản trên đây đảm bảo cho bộ máy nhà nước vận hành bình thường, lành mạnh, nhưng tiếc thay không tồn tại trong thế chế độc tài toàn trị của ĐCSVN.
Quốc hội CSVN, cơ quan lập pháp, trên danh nghĩa có quyền lực cao nhất, nhưng không có ý nghĩa thực tế trong vai trò quản lý đất nước, chính xác chỉ là nơi hợp thức hoá các quyết định của lãnh đạo đảng. Nhiều nghị định của chính phủ thay thế luật, đứng trên luật và cả hiến pháp.
Một ví dụ. Đặt vấn đề: “Có ý kiến tỏ ra nghi ngại khi chúng ta chỉ bắt được ‘con mèo ăn miếng mỡ’, còn ‘con cọp bắt heo’ lại không tóm được bao nhiêu“, bài “Xử lý ai nếu chính người đứng đầu tham nhũng“, tờ Người Đưa Tin hôm 9/8/2012 cho hay, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn cho biết, “đã hoàn thành dự thảo bổ sung, sửa đổi Nghị định xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi để xảy ra tham nhũng. Hiện Dự thảo đang được trình lên Chính phủ xem xét và phê duyệt. Theo đó, mức độ xử lý kỷ luật được đề nghị trong dự thảo bao gồm 3 hình thức: khiển trách, cảnh cáo và cách chức“.
Thật là nghịch chướng! Đúng ra, Dự thảo này phải được quốc hội triển khai thành luật thì lại được xử lý bởi chính phủ, là cái ổ của bầy sâu tham nhũng!
Sự im lặng của bầy cừu
Là tên bộ phim “The Silence of the Lambs” nổi tiếng của Mỹ phát hành năm 1991, của đạo diễn Jonathan Demme, đã đoạt 5 giải Oscar quan trọng nhất: Phim hay nhất; Đạo diễn, Kịch bản xuất sắc nhất; Nam và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.
Phim nói về nữ sinh tập sự của FBI Clarice Starling (Jodie Foster), người đã tận dụng được tên ăn thịt người Hannibal Lecter (Anthony Hopkins) đang bị biệt giam, khai thác lấy được thông tin về kẻ giết người hàng loạt Bill Buffalo (Ted Levine), rồi giết được hắn và giải thoát nạn nhân bị hắn bắt cóc, nhưng Hannibal Lecter đã trốn thoát khỏi nơi giam cầm và trở thành mối nguy hiểm cho xã hội. Rốt cuộc tiếng cừu non kêu thảm thiết ám ảnh Clarice Starling trong giấc mơ mỗi đêm vẫn không chấm dứt…
Thật khó biết, trong số Phạm Thanh Bình, Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá, Lý Xuân Hải, Dương Chí Dũng, v.v… ai là “Lecter” trong cuộc săn lùng “Buffalo”!
Quốc hội khóa 13 sẽ họp vào các ngày 22 đến ngày 24/10, có thể xem xét, quyết định phê chuẩn về nhân sự mới trong nội các của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Có sự nối dài nào của HN TW6 không?
Trong cuộc đấu vừa qua, cặp Trọng-Sang đã đạt được kết quả, làm suy giảm nghiêm trọng uy thế của Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, ông Dũng chưa yếu đến mức như nhiều người lầm tưởng vì ông ta còn những liên kết chặt chẽ với lực lượng âm binh an ninh, kinh tế, những vùng đặc quyền mà ông ta đã kịp rải ân huệ cho nhiều người.
Dân gian phương Tây nói rằng đứng đái dưới gió đôi khi gây hậu quả nghiêm trọng. Ông Trọng và ông Sang đã ra tay, đứng đái dưới cơn lốc quyền-tiền của ông Dũng và phe nhóm.
Vì thế, dư luận dự đoán sẽ có những cuộc thỉ hí tiếp theo. Nhưng tôi tin rằng, trong tình huống nào, dân chúng Việt Nam cũng chỉ rú lên những tiếng kêu ai oán thảm thiết của đàn cừu. Trong sự cam phận và bất lực!
Ngày 15/10/2012
Lê Diễn Đức – RFA Blog
Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012
CANH BẠC CỦA ĐẢNG !
Trần Minh Khôi
viết từ Pennsylvania, Hoa Kỳ
Cập nhật: 15:06 GMT - chủ nhật, 14 tháng 10, 201
Hội nghị Trung ương 6 bế mạc ngày 15/10
Một vị trưởng lão trong giang hồ, một giáo sư đáng kính và là người xưa nay vẫn có thái độ thân thiện với chính quyền Việt Nam, nói với tôi, giọng khinh miệt, “Chừng nào hắn [Nguyễn Tấn Dũng] còn ngồi đó thì tôi sẽ không về Việt Nam”.
Có vẻ như nhiều người cũng không muốn ông thủ tướng ngồi ở đó nữa. Nhiều tiếng nói trên không gian mạng không ngần ngại bày tỏ công khai điều này.
Vì nhiều lý do, cũng dễ hiểu, người ta tin rằng nếu ông Dũng ra đi thì Đảng và Nhà nước Việt Nam giải quyết được các vấn đề khủng hoảng hiện nay, trong đó khủng hoảng lớn nhất vẫn là khủng hoảng tính chính đáng của lãnh đạo.
Việc ông Dũng rời khỏi ghế thủ tướng lúc này có thể đem đến một cảm giác thở phào cho nhiều người nhưng niềm tin cho rằng có ai đó đến thế chỗ ông có khả năng giải quyết khủng hoảng là một niềm tin không có cơ sở.
Khủng hoảng hiện nay ở Việt Nam là khủng hoảng định chế chứ không phải khủng hoảng nhân sự.
Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản hiểu điều này và nếu họ khôn ngoan thì họ sẽ để ông Dũng ngồi yên đó.
Khủng hoảng định chế
Ông Dũng ra đi giúp được gì cho Đảng, ngoài việc làm giảm đi áp lực của bức xúc xã hội trong một thời gian ngắn? Không giúp được điều gì chắc chắn cả.
Đó là chưa nói đến những rủi ro khác, mà rủi ro lớn nhất là Đảng sẽ mất luôn khả năng kiểm soát các lực lượng âm binh của ông Dũng trong an ninh và kinh tế mà từ trước đến nay Đảng vẫn không kiểm soát được. Đám âm binh này do ông Dũng tạo nên, ông sống với chúng và hiện nay nếu trong Bộ Chính trị có ai có khả năng điều khiển chúng thì người đó chính là ông Dũng.
"Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể xung đột đến mức loại trừ nhau nhưng họ chỉ loại trừ nhau khi không gây rủi ro cho quyền lãnh đạo của Đảng."
Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể xung đột đến mức loại trừ nhau nhưng họ chỉ loại trừ nhau khi không gây rủi ro cho quyền lãnh đạo của Đảng.
Một khi quyền lãnh đạo đó bị đe dọa, bởi bất cứ thế lực nào, thì một sợi dây vô hình sẽ buộc chặt họ lại với nhau. Lúc này không có lý do gì để tin rằng cái gọi là “trận chiến Ba-Tư”, nếu thật sự có thật một trận chiến như thế, sẽ đưa đến kết quả làm phân hóa Đảng.
Tóm lại: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ không đi đâu cả. Và đó là điều tốt.
Sự xuất hiện trở lại của Ban Kinh tế Trung ương và việc Ban Chỉ đạo Chống Tham nhũng nay thuộc về Đảng là những tín hiệu xấu cho tiến trình pháp quyền hóa ở Việt Nam.
Phải mất gần hai thập niên, và phải cần đến những vị tổng bí thư yếu bóng vía như Nông Đức Mạnh, để Việt Nam có thể chuyển trung tâm quyền lực từ Đảng sang phía hành pháp của chính phủ. Đây là một bước tiến lớn trong tiến trình pháp quyền hóa, dù chưa phải là dân chủ hóa, đời sống chính trị quốc gia.
Vấn đề khủng hoảng hiện nay không phải là vì do một cá nhân nào mà là sự khủng hoảng có tính hệ thống. Khủng hoảng là do quyền lực tập trung quá lớn vào chính phủ trong sự thiếu vắng một cơ chế kiểm soát hữu hiệu.
Ở các nước dân chủ, quyền kiểm soát này nằm trong tay Quốc hội. Ở Việt Nam, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản nghĩ rằng qua cơ chế “cung vua – phủ chúa”, và từ các cơ chế của Đảng, họ có thể kiểm soát được hoạt động của chính phủ.
Họ đã sai lầm.
Ngay cả khi chính phủ là do đảng cầm quyền dựng nên trong một nhà nước độc đảng thì nó luôn vận hành theo một logic chức năng và quyền hạn mà đảng cầm quyền không thể kiểm soát được. Chỉ có một hệ thống pháp lý hoàn thiện mới có khả năng kiểm soát quyền lực của chính phủ.
Đưa chức năng kiểm soát này về lại với Đảng là một bước đi thụt lùi, phản động.
'Quyền lực không bị kiểm soát'
Có thể trong một thời gian ngắn, bằng một số biện pháp hành chánh nào đó, như “phê và tự phê” chẳng hạn, Đảng có thể kìm hãm sự vô độ của chính phủ nhưng về lâu về dài Đảng sẽ không giải quyết được những khủng hoảng tiếp theo: khủng hoảng pháp lý.
Nên nhớ, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn hoạt động ngoài vòng pháp luật. Cho đến giờ phút này vẫn không tồn tại một đạo luật nào quy định vai trò và trách nhiệm của Đảng đối với chính phủ.
Đáng lẽ ra, thay vì hoảng hốt đưa các ban bệ với chức năng kiểm soát chính phủ đó về lại trong các cơ cấu của Đảng, Đảng nên mạnh dạn chuyển chúng sang cho Quốc hội.
Tại sao phải nặn ra những thứ ban bệ trong khung quyền lực của Đảng khi mà đã tồn tại những ủy ban tương tự như thế ở Quốc hội? Tại sao không để Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội kiểm soát hoạt động kinh tế, tài chính của chính phủ? Tại sao phải không giao cho Ủy ban Pháp lý của Quốc hội trách nhiệm chống tham nhũng?
Đảng phải bước ra khỏi sự sợ hãi mất quyền lực truyền thống để tiếp tục cố gắng xây dựng một hệ thống pháp quyền ở Việt Nam. Việt Nam đang đi trên con đường chuyển từ đảng quyền sang pháp quyền. Quay trở lại lúc này, dù trong giai đoạn khủng hoảng, chứng tỏ những người lãnh đạo Đảng thiếu bản lĩnh.
Trở lại với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: ông Dũng cũng chỉ là nạn nhân của quyền lực không bị kiểm soát. Khủng hoảng do ông gây ra là khủng hoảng định chế.
Cần chuyển hóa định chế chứ không phải chuyển đổi nhân sự. Định chế phải được chuyển hóa theo hướng pháp quyền hóa chứ không phải quay trở lại với đảng quyền hóa đời sống chính trị quốc gia. Những người lãnh đạo Đảng lúc này phải có đủ bản lĩnh và quyết đoán để:
"Ông Dũng cũng chỉ là nạn nhân của quyền lực không bị kiểm soát. Khủng hoảng do ông gây ra là khủng hoảng định chế. "
Chặt hết những vây cánh do sự lạm dụng quyền lực tạo nên xung quanh ông Dũng. Trả lại cho Quốc hội quyền kiểm soát quyền lực chính phủ, nhanh chóng thông qua những đạo luật có tính hồi tố để chống tham nhũng. Luật hóa sự tồn tại và quyền lực của Đảng để tránh khủng hoảng pháp lý trong tương lai.
Như đã nói, đảng cầm quyền, ngay cả trong cơ chế độc đảng, không bao giờ có khả năng kiểm soát quyền lực chính phủ của chính nó đẻ ra. Những khủng hoảng hiện nay là sự tiếp tục của chuỗi khủng hoảng mang tính hệ thống đối với những nhà nước độc tài.
Nếu không xây dựng được một hệ thống pháp quyền, với sự chia sẻ và giám sát quyền lực hữu hiệu, Đảng và nhà nước sẽ đi từ khủng hoảng này đến khủng hoảng khác cho đến khi sụp đổ.
Canh bạc của Đảng hiện nay không phải là chuyện ai thắng ai trong “trận chiến Ba-Tư”, hay trong bất cứ xung đột quyền lực và quyền lợi của cá nhân lãnh đạo nào. Canh bạc của Đảng chính là là sự lựa chọn bản lĩnh và thông minh để tiếp tục tồn tại và cầm quyền.
Thời gian của sự lựa chọn này không nhiều.
Bài viết được đăng với sự đồng ý của tác giả, một kỹ sư hiện sống tại Pennsylvania, Hoa Kỳ; và thể hiện quan điểm và văn phong của riêng ông. Quý vị có ý kiến trao đổi, xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk
Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012
Căng thẳng cung đình 'thể hiện qua blog QUAN LÀM BÁO "
Cập nhật: 10:51 GMT - thứ tư, 10 tháng 10, 2012
Facebook
Ông Dũng bị những trang web phản đối buộc tội tham lam, chủ nghĩa bè phái và quản lý kinh tế yếu kém.
Hãng tin Reuters hôm 10/10 có bài phân tích sự nhiễu loạn thông tin và đấu đá nội bộ ở Việt Nam qua sự xuất hiện của blog Quan làm báo.
Cây bút Stuart Grudgings viết bài với tựa đề "Những trang blog xỏ xiên đánh tín hiệu về sự căng thẳng trong lúc Việt Nam tìm cách giải quyết vấn nạn kinh tế".
BBC xin được giới thiệu với bạn đọc bài viết này.
Khi một trong những ông chủ ngân hàng giàu có và nhiều quan hệ nhất của Việt Nam bị bắt vào tháng Tám, một động thái khiến thị trường chứng khoán rung chuyển, một trang blog nhỏ ít ai biết đến đăng tải tin nhiều giờ trước truyền thông nhà nước.
Đó là dấu hiệu đầu tiên cho thấy trang Quan Làm Báo có thể là một cửa sổ nhìn vào căng thẳng gia tăng trong ban lãnh đạo trong lúc đất nước cộng sản đang phải vật lộn với những vấn nạn kinh tế ăn sâu, phá tan hình ảnh một trong những thị trường đang lên nóng nhất Châu Á.
Trang web này đã trở thành một trong những trang được xem nhiều nhất vì phê phán không thương tiếc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cáo buộc ông này tội tham lam, chủ nghĩa bè phái và quản lý kinh tế yếu kém.
"Những đòn tấn công đăng tải trên trang này và hai trang khác chắc chắn phải từ phía trong nội bộ Đảng," một đảng viên giấu tên và một vài nhà nghiên cứu thường xuyên theo dõi những bí mật chính trị của Việt Nam bình luận. Họ nói rằng những trang này phản ánh sự đấu đá nội bộ khốc liệt xung quanh cách xử lý những ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước đang nợ đầm đìa.
Trong bối cảnh bị nhiều chỉ trích vì không thích nghi với kinh tế thị trường toàn cầu, những nhà lãnh đạo chóp bu của Hà Nội đã bắt đầu một hội nghị tuần trước, chỉ vài ngày sau khi hãng xếp hạng tín nhiệm Moody's hạ bậc tín nhiệm quốc gia của Việt Nam với quan ngại rằng những ngân hàng ngập nợ có thể sẽ phải cần một khoản cứu trợ lớn.
Nhiều nhà quan sát đã dự đoán Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tìm cách giành lại bớt quyền kiểm soát chính sách từ phía ông Dũng, một cựu Thống đốc Ngân hàng trung ương, bị cáo buộc có quan hệ thân mật với những doanh nhân giàu có. Ông Dũng cũng bị gán cho có liên hệ với sai phạm ở các doanh nghiệp Nhà nước đang kẹt cứng về tài chính.
"Họ sẽ phải đưa ra những quyết định rất cứng rắn," Adam McCarty, trưởng kinh tế gia tại hãng tư vấn Mekong Economics đóng tại Việt Nam, bình luận về ban lãnh đạo Cộng Sản. "Họ không còn chỗ để ngọ nguậy nữa."
"Một số người và nhóm người giàu có sẽ phải từ bỏ rất nhiều tài sản và của cải. Xung đột hiện tại là xung quanh vấn đề đó sẽ là ai," ông Carty nói.
Suy thoái đạo đức chính trị?
"Nếu thiếu vắng sự minh bạch và kỷ luật ngân hàng, cải cách cơ cấu ngân hàng sẽ chỉ là sự đeo đuổi viễn vông"
Ông Cao Sỹ Kiêm, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Ông Sang đã công khai phản đối lại chủ nghĩa bè phái.
Trước khi diễn ra Hội nghị Trung ương, ông đã đổ lỗi những vấn đề hiện tại của Việt Nam cho sự suy thoái đạo đức chính trị.
Tuy nhiên giới phân tích lại cho rằng xung đột giữa ông Sang và ông Dũng thực chất chỉ là tranh chấp quyền lực, đồng thời nghi ngờ việc một trong hai bên sẽ thực sự thực hiện những cải cách kinh tế cứng rắn mà Việt Nam đang cần.
Điều mấu chốt ở đây, không thấy rõ nỗ lực nào nhằm chấm dứt sự thiếu minh bạch hiển nhiên của hệ thống ngân hàng. Không ai rõ về độ tín nhiệm của các ngân hàng, ai là người thực sự sở hữu chúng cũng như khoản vay cửa sau dành cho chính các doanh nghiệp của những ngân hàng này là bao nhiêu.
"Nếu thiếu vắng sự minh bạch và kỷ luật ngân hàng, cải cách cơ cấu ngân hàng sẽ chỉ là sự đeo đuổi viển vông," ông Cao Sỹ Kiêm, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, hiện là thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia bình luận.
Sự hạ bậc tín nhiệm của Moody's là cú đấm gần đây nhất vào một nước từng là ngôi sao kinh tế của Đông Nam Á khi sự sa đà với tăng trưởng tín dụng đi lệch hướng, để lại những khoản nợ và sự mất cân bằng khổng lồ.
Được châm ngòi bởi cải cách bắt đầu từ những năm 1980, tăng trưởng kinh tế đạt đến mức 8,5% trong năm 2007. Tuy nhiên hiện tại chính phủ chỉ dự đoán tăng trưởng sẽ chỉ ở mức 5,2% trong năm nay, thấp hơn nhiều so với mức chỉ tiêu 6-6,5% trước đó.
Trong lúc hầu hết các nước Đông Nam Á đang thu hút ngày càng nhiều những nguồn đầu tư nước ngoài, trong chín tháng đầu năm nay, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lại giảm đi 1,2% so với một năm trước.
Thị trường bất động sản suy thoái
Những trang đánh phá ông Dũng được cho là phản ánh sự đấu đá nội bộ khốc liệt trong Đảng Cộng Sản
Ngân hàng trong nước hiện tại đang gánh chịu hậu quả của suy thoái nặng nề đối với ngành bất động sản và các doanh nghiệp Nhà nước ngập nợ. Tổng số nợ xấu hiện tại được ước tính lên tới 15,6 tỷ đôla dựa vào thống kê gần đây nhất của Ngân hàng Trung ương. Tuy nhiên nhiều chuyên gia phân tích tin rằng con số thực sự cao hơn nhiều.
Việc dọn dẹp khối nợ xấu sẽ yêu cầu một khoản cứu trợ, tuy nhiên kế hoạch 5 tỷ đôla để giải quyết nợ của Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính đang có vẻ khựng lại.
Một trong những dấu hiệu cho vấn đề ngày càng xấu đi tại các ngân hàng, đó là sự thất bại của họ trong việc tận dụng năm lần cắt lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trong năm nay để giúp doanh nghiệp.
Thay vì xuất quỹ những khoản tiền mới và mạo hiểm tăng thêm nợ, các ngân hàng đang có xu hướng tích tụ vốn để đề phòng cho một ngày xấu có khả năng đang đến gần.
Tiền gửi ngân hàng tăng chỉ 11% trong tám tháng đầu năm, trong lúc tăng trưởng tín dụng chỉ tăng 1,4% so với một năm trước; một sự đột biến bất chợt đối với một nền kinh tế với tăng trưởng chi phụ thuộc chủ yếu vào tăng trưởng tín dụng ở hai con số trong thập kỷ qua.
"Hiện tại rất khó để vay mượn. Đây là thời khắc khó khăn nhất trong nhiều năm trở lại đây," ông Tòng Trọng Nghĩa, giám đốc một công ty sản xuất nội thất với 70 nhân công tại tỉnh Bắc Ninh nói.
Ông Nghĩa nói sản lượng đã giảm 40% trong năm nay; đồng thời hoạt động sản xuất ở nhiều doanh nghiệp khác đã ngưng trệ.
Mặc dù một cuộc khủng hoảng lớn đối với ngành ngân hàng khó có khả năng xảy ra, sự đình đốn hiện tại là một mối nguy hiểm nếu thiếu đi những cải cách táo bạo để đối phó với nợ xấu và đưa tình trạng thực sự của hệ thống ngân hàng ra ánh sáng.
Rạn nứt chính trị?
"Nghi ngờ rằng những đối thủ của ông Dũng trong Đảng Cộng Sản có thể đang có dính líu trực tiếp sẽ là một sự mỉa mai lớn nhất ở một đất nước nơi mà những blogger phải đối mặt với những bản án tù đày dài hạn chỉ vì dám chất vấn chính phủ."
Nhà cầm quyền đã hành động mạnh mẽ hồi tháng Tám khi bắt giữ ông Nguyễn Đức Kiên, nhà sáng lập giàu có của Ngân hàng Thương mại Á Châu. Tuy nhiên việc bắt ông này cũng như tội lừa đảo có vẻ như chỉ là một hành động riêng lẻ và có thể đã phản ánh xung đột leo thang ở cấp lãnh đạo.
Những nhà phân tích chính trị nói rằng ông Kiên có quan hệ thân mật với ông Dũng, và cho rằng việc ông này bị bắt là nỗ lực nhằm giảm bớt quyền hành của thủ tướng, người có quyền lực ngày càng mở rộng sau khi nhậm chức từ năm 2006.
Sự ra đời của Quan Làm Báo và hai blog có tính phê phán gay gắt khác là Dân Làm Báo và Biển Đông đã đóng góp vào thêm những tình tiết liên quan đến chính trị.
Bất chấp việc bị lên án trước công chúng bởi ông Dũng là "mưu đồ độc địa của thế lực thù địch," cả ba trang web tiếp tục hoạt động, làm gia tăng nghi ngờ rằng những đối thủ của ông Dũng trong Đảng Cộng Sản có thể đang có dính líu trực tiếp.
Điều đó sẽ là một sự mỉa mai lớn nhất ở một đất nước nơi mà những blogger phải đối mặt với những bản án tù đày dài hạn chỉ vì dám chất vấn chính phủ.
Quan Làm Báo sử dụng rất nhiều lời ám chỉ và thuật ngữ của những người tay trong, gọi ông Dũng là "3D", "quái vật" và "anh y tá" - với tên gọi cuối cùng nhắc đến vai trò của ông này trong cuộc chiến Việt Nam.
Nhiều bài viết đã đánh phá ông Dũng vì hỗ trợ những ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước yếu kém.
"Người Việt Nam có thể thấy Bộ Chính trị đã phạm những lỗi lầm nghiêm trọng vì chịu đựng 3D," trích một trong những bài đăng tuần trước.
Bài viết nói thêm rằng ông này đã "trở thành một con quái vật mà không ai kiểm soát nổi."
Bài viết của Reuters có sự đóng góp của John Ruwitch từ Thượng Hải, và do Jason Szep cùng Richard Borsuk biên tập lại.
,
Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)