SỐNG CHẾT MẶC BAY
Tác giả: PHẠM DUY TỐN
Phạm Duy Tốn (1881 – 25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông ngôn ở toà Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay! của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam. Ngoài tên thật Phạm Duy Tốn, ông còn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An. Một trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy.
Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ... xem chừng núng thế lắm, không khéo thì vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức gìn giữ, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột. Tình cảnh này trông thật là thảm.
Tuy đánh trống liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác, gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời mưa vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất!...
Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu đuối mà đối với sức mưa to lớn, để bảo thủ lấy tánh mạng gia tài; thế thời quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết, giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại, cùng ngồi chầu bài.
Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch nghiêm trang lắm, trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ
mẫu gọi: "Điếu, mày!" tiếng tên lính thưa: "Dạ"; tiếng thầy Đề hỏi: "Bẩm, bốc?" tiếng quan lớn truyền "ừ". Kẻ này:
"Bát xách... Ăn", người kia: "Thất văn... Phỗng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười khi nói, vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh...
Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy trời đất... Mọi người giật nẩy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.
Có người khẽ nói:
- Bẩm, đê có khi vỡ!
Ngài cau mặt gắt rằng:
- Mặc kệ.
Rồi ngài xếp lại bài, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình, bảo thầy đề lại:
- Có ăn không thì bốc chứ!
Thầy đề vội vàng:
- Dạ, bẩm bốc.
Vừa lúc đó, thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe, càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà,
tiếng chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.
Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, tất tả chạy xông vào, thở không ra lời:
- Bẩm... quan lớn... Đê vỡ rồi!
Quan lớn đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng:
- Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
- Dạ, bẩm...
- Đuổi cổ nó ra!
Ngài quay vào, hỏi thầy đề:
- Thầy bốc quân gì thế?
- Dạ, bẩm con chưa bốc.
- Thì bốc đi chứ!
Thầy đề, tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút một con bài lật ngửa, xướng rằng:
- Chi chi!
Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
- Đây rồi!... Thế chứ lại!
Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười, vừa nói:
- ù! Thông tôm, chi chi nẩy!... Điếu mày!...
Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết!
Tạp chí Nam Phong,
Số 18, tháng 12 - 1918
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tìm kiếm Blog này
Giới thiệu về tôi
Lưu trữ Blog
-
▼
2010
(79)
-
▼
tháng 10
(19)
- Phải xin lỗi vì chê tiệc Việt Nam
- Khi lời xin lỗi vẫn còn là... xa xỉ
- 7 lời khuyên hay nhất về sự thay đổiTác giả: THỦY ...
- Những con nhện khổng lồ bò khắp Hà Nội
- Đội quân cướp nhà băng sặc sỡ của Hà Nội
- Người Hà Nội đang làm 'xiếc tập thể'?
- Lời khuyên về du học của 'người tha hương'
- Xếp hạng tham nhũng: Việt Nam tăng hạng, nhưng khô...
- Về quê để thấy còn nợ quê nhiều lắm! Trần kim Anh
- SỐNG CHẾT MẶC BAY Tác giả: PHẠM DUY TỐN Phạm Duy ...
- SỐNG CHẾT MẶC BAY Tác giả: PHẠM DUY TỐN Phạm Duy ...
- 13280 79 /2010-10-22-pn-and-hd-vinashin-khong-the-...
- Xem cứu trợ lũ lụt ở Thái lan nghĩ về Việt nam
- Hai tiếng “cách mạng” thiêng liêng ấy
- Quốc tế kêu gọi Bắc Kinh trả tự do cho Lưu Hiểu Ba...
- Ba nguyên tắc cổ nhân áp dụng dạy con (Việt đại kỷ...
- Khi Đặng Thái Sơn không thể "địch" lại Hương Lan, ...
- Hội chứng một ngàn
- Khi nào một quốc gia bị diệt vong, một dân tộc bị ...
-
▼
tháng 10
(19)
Cộng Sản ngày nay cũng không khác gì, hối đó là thế kỷ 19. Bây giờ thế kỳ 21. Đất nước vẫn bị ngập nước như vỡ đê mỗi khi mưa to. Hồi đó thời Pháp thuộc dân bị nô lệ ngoại bang. Bây giờ đất nước ''Độc Lập'' nhưng nhân dân vẫn bĩ NO LỆ nhà nước quan chúc của mình .và còn bắt dân đi nô lệ xứ người!!! thế thì sao đây??!!!
Trả lờiXóaTha Nhân